Tử vong mẹ là gì? Các công bố khoa học về Tử vong mẹ

Tử vong mẹ là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả tình trạng mà một người mất mẹ. Đây là một sự mất mát lớn và đau đớn trong cuộc sống của ai đó, và có thể gây ...

Tử vong mẹ là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả tình trạng mà một người mất mẹ. Đây là một sự mất mát lớn và đau đớn trong cuộc sống của ai đó, và có thể gây ra sự đau khổ, biến động tâm lý và sự thay đổi đáng kể trong cuộc sống của người trải qua. Tử vong mẹ có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm bệnh tật, tai nạn, tử vong tự tử hoặc tội ác.
Tử vong mẹ có thể là một trạng thái mà một người mất đi mẹ trong suốt cuộc đời của họ. Sự mất mát mẹ có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào và có thể gây ra tác động lớn đến sự phát triển về tinh thần, cảm xúc và xã hội của người trải qua.

Nguyên nhân chính gây ra tử vong mẹ bao gồm:

1. Bệnh tật: Một số người mất mẹ do các bệnh tật như ung thư, bệnh tim, đột quỵ, suy thận, suy gan hoặc các bệnh lý khác. Những căn bệnh này có thể kéo dài trong thời gian dài hoặc gây tử vong đột ngột.

2. Tai nạn: Mẹ có thể mất do tai nạn ôtô, tai nạn lao động, tai nạn thể thao, tai nạn gia đình hoặc các nguyên nhân khác. Những sự kiện đau lòng này có thể xảy ra đột ngột và gây ra sự mất mát không mong muốn.

3. Tử vong tự tử: Trong một số trường hợp, mẹ có thể mất do tự tử. Nguyên nhân tự sát có thể liên quan đến các vấn đề tâm lý, rối loạn tâm lý hoặc áp lực cuộc sống khó khăn.

4. Tội ác: Tử vong mẹ có thể xảy ra do tội ác như giết người, đồng cảm dẫn đến cái chết, bạo lực gia đình hoặc bạo lực xã hội. Những tình huống này có thể làm điêu đứng và gây ra những hậu quả nặng nề đối với người còn lại.

Tử vong mẹ có thể gây ra những tác động về mặt tâm lý và xã hội, bao gồm cảm giác mất mát, đau khổ, sự cô đơn, thiếu sự hướng dẫn, khó khăn trong học tập hoặc công việc, và ảnh hưởng đến mối quan hệ gia đình và tình bạn. Những người trải qua sự mất mát này cần được hỗ trợ tâm lý, hỗ trợ xã hội và chăm sóc đặc biệt để giúp họ vượt qua giai đoạn khó khăn.
Tử vong mẹ có thể là một trong những trải nghiệm buồn nhất trong cuộc đời một người. Có nhiều nhân tố khác nhau có thể gây ra tử vong mẹ, bao gồm:

1. Bệnh tật: Các bệnh lý như ung thư, xơ cứng động mạch, suy tim, suy thận và nhiều bệnh lý khác có thể dẫn đến tử vong mẹ. Khi một người mẹ chịu đựng một căn bệnh nặng, việc mất đi người mẹ của mình có thể gây ra sự mất mát sâu sắc và cảm giác mất đi một sự hỗ trợ và yêu thương đáng kính trong cuộc sống.

2. Tai nạn: Các tai nạn giao thông, tai nạn lao động, tai nạn trong gia đình hoặc bất kỳ tai nạn nào khác có thể dẫn đến mất mẹ. Những sự kiện đau lòng và không lường trước này thường xảy ra đột ngột, gây ra sự mất mát không thể tả được và để lại những hậu quả lâu dài cho người thân còn lại.

3. Bạo lực và tội ác: Các tình huống bạo lực gia đình, xã hội hoặc tội ác khác có thể là nguyên nhân của mất mẹ. Nếu mẹ bị giết hoặc đối mặt với bạo lực và tội ác, người con trai và người con gái có thể chịu đựng mất mát không thể lượng được và các vấn đề tâm lý phức tạp.

Tử vong mẹ có thể gây ra những tác động đáng kể đến tâm lý và cuộc sống của người ở lại, bao gồm:

1. Trauma và đau khổ tâm lý: Mất mẹ có thể gây ra sự giảm trí nhớ, cảm xúc tiêu cực, lo âu, trầm cảm và stress cảm xúc. Người trải qua tử vong mẹ có thể gặp khó khăn trong việc chấp nhận sự thay đổi và sẽ cảm thấy mất đi một phần của họ.

2. Khó khăn trong mối quan hệ gia đình: Sự mất mẹ có thể tạo ra sự thay đổi đáng kể trong mối quan hệ gia đình. Có thể xuất hiện các xung đột, căng thẳng, sự mất cân bằng và khó khăn trong việc tạo dựng lại cuộc sống gia đình.

3. Khó khăn trong cuộc sống hàng ngày: Sự mất mẹ có thể làm thay đổi cuộc sống hàng ngày của người con, bao gồm học tập, công việc và các tác vụ khác. Có thể khó khăn để tập trung, hoàn thành nhiệm vụ và đạt được mục tiêu trong khi đối mặt với biên giới và cảm xúc.

4. Tác động xã hội và cộng đồng: Mất mẹ cũng có thể tác động đến mối quan hệ xã hội và tương tác với bạn bè, cộng đồng và xã hội. Có thể xuất hiện cảm giác cô đơn, cách ly, và khó khăn khi xây dựng và duy trì các mối quan hệ xã hội.

Để giúp người trải qua tử vong mẹ, hỗ trợ tâm lý, tư vấn, và sự ủng hộ cộng đồng rất quan trọng. Có thể cần đến các dịch vụ hỗ trợ và chăm sóc đặc biệt để giúp người ở lại vượt qua giai đoạn khó khăn này và tiếp tục mạnh mẽ trên con đường phục hồi.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tử vong mẹ":

Tỷ lệ mắc và tử vong do ung thư trên toàn cầu: Nguồn, phương pháp và các xu hướng chính trong GLOBOCAN 2012 Dịch bởi AI
International Journal of Cancer - Tập 136 Số 5 - 2015

Các ước tính về tỷ lệ mắc và tử vong do 27 loại ung thư chính và tổng hợp cho tất cả ung thư trong năm 2012 hiện đã có sẵn trong series GLOBOCAN của Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế. Chúng tôi xem xét các nguồn và phương pháp đã sử dụng để biên soạn các ước tính tỷ lệ mắc và tử vong do ung thư ở từng quốc gia, và mô tả ngắn gọn các kết quả chính theo vị trí ung thư và trong 20 “khu vực” lớn trên thế giới. Tổng cộng, có 14,1 triệu trường hợp mới và 8,2 triệu ca tử vong trong năm 2012. Những loại ung thư được chẩn đoán phổ biến nhất là ung thư phổi (1,82 triệu), ung thư vú (1,67 triệu) và ung thư đại trực tràng (1,36 triệu); những nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong do ung thư là ung thư phổi (1,6 triệu ca tử vong), ung thư gan (745.000 ca tử vong) và ung thư dạ dày (723.000 ca tử vong).

#ung thư #tỷ lệ mắc #tỷ lệ tử vong #GLOBOCAN #ung thư phổi #ung thư vú #ung thư đại trực tràng
Dịch tễ học toàn cầu về bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu - Đánh giá meta về tỉ lệ hiện mắc, tỉ lệ phát sinh và kết quả Dịch bởi AI
Hepatology - Tập 64 Số 1 - Trang 73-84 - 2016

Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD) là nguyên nhân chính gây ra bệnh gan trên toàn thế giới. Chúng tôi đã ước lượng tỉ lệ hiện mắc, phát sinh, tiến triển và kết quả của NAFLD và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH) trên toàn cầu. PubMed/MEDLINE đã được tìm kiếm từ năm 1989 đến 2015 với các thuật ngữ liên quan đến dịch tễ học và tiến triển của NAFLD. Các trường hợp loại trừ bao gồm các nhóm bị lựa chọn (các nghiên cứu chỉ bao gồm người béo phì hoặc tiểu đường hoặc trẻ em) và không có dữ liệu về tiêu thụ rượu hoặc các bệnh gan khác. Tỉ lệ phát sinh của ung thư biểu mô tế bào gan (HCC), xơ gan, tử vong chung và tử vong liên quan đến gan đều được xác định. NASH yêu cầu chẩn đoán bằng mô học. Tất cả các nghiên cứu đã được ba nhà điều tra độc lập rà soát. Phân tích được phân tầng theo khu vực, kỹ thuật chẩn đoán, chỉ định sinh thiết và dân số nghiên cứu. Chúng tôi sử dụng mô hình các tác động ngẫu nhiên để cung cấp các ước lượng điểm (khoảng tin cậy 95% [CI]) về tỉ lệ hiện mắc, phát sinh, tỉ lệ tử vong và tỉ lệ phát sinh, đồng thời mối liên hệ phân tích theo nhóm con để giải thích dị biệt. Trong số 729 nghiên cứu, có 86 nghiên cứu được bao gồm với cỡ mẫu 8.515.431 từ 22 quốc gia. Tỉ lệ hiện mắc NAFLD toàn cầu là 25,24% (CI 95%: 22,10-28,65), với tỉ lệ cao nhất ở Trung Đông và Nam Mỹ và thấp nhất ở Châu Phi. Các bệnh đồng mắc chuyển hóa liên quan đến NAFLD bao gồm béo phì (51,34%; CI 95%: 41,38-61,20), đái tháo đường loại 2 (22,51%; CI 95%: 17,92-27,89), rối loạn mỡ máu (69,16%; CI 95%: 49,91-83,46), tăng huyết áp (39,34%; CI 95%: 33,15-45,88), và hội chứng chuyển hóa (42,54%; CI 95%: 30,06-56,05). Tỉ lệ tiến triển xơ hóa và tốc độ tiến triển trung bình hàng năm trong NASH lần lượt là 40,76% (CI 95%: 34,69-47,13) và 0,09 (CI 95%: 0,06-0,12). Tỉ lệ phát sinh HCC trong số bệnh nhân NAFLD là 0,44 trên 1.000 người-năm (phạm vi, 0,29-0,66). Tử vong do gan và tử vong chung trong NAFLD và NASH lần lượt là 0,77 trên 1.000 (phạm vi, 0,33-1,77) và 11,77 trên 1.000 người-năm (phạm vi, 7,10-19,53) và 15,44 trên 1.000 (phạm vi, 11,72-20,34) và 25,56 trên 1.000 người-năm (phạm vi, 6,29-103,80). Tỉ lệ rủi ro phát sinh đối với tử vong do gan và tử vong chung cho NAFLD lần lượt là 1,94 (phạm vi, 1,28-2,92) và 1,05 (phạm vi, 0,70-1,56). Kết luận: Khi đại dịch béo phì toàn cầu thúc đẩy các tình trạng chuyển hóa, gánh nặng lâm sàng và kinh tế của NAFLD sẽ trở nên to lớn. (Hepatology 2016;64:73–84)

#Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD) #viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH) #dịch tễ học toàn cầu #tỉ lệ hiện mắc #tỉ lệ phát sinh #ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) #tử vong liên quan đến gan #bệnh đồng mắc chuyển hóa #xơ hóa #rối loạn chuyển hóa.
Cơ chế sống sót và tử vong của thực vật trong điều kiện hạn hán: Tại sao một số cây sống sót trong khi những cây khác lại chết do hạn hán? Dịch bởi AI
New Phytologist - Tập 178 Số 4 - Trang 719-739 - 2008
Tóm tắt

Các đợt hạn hán nghiêm trọng đã liên quan đến hiện tượng tử vong của rừng ở quy mô vùng trên toàn thế giới. Biến đổi khí hậu dự kiến sẽ làm trầm trọng thêm các sự kiện tử vong cấp vùng; tuy nhiên, việc dự đoán vẫn rất khó khăn vì các cơ chế sinh lý bình luận về khả năng sống sót và tử vong do hạn hán vẫn chưa được hiểu rõ. Chúng tôi đã phát triển một lý thuyết dựa trên áp suất thủy lực, xem xét cân bằng carbon và khả năng kháng côn trùng để phát triển và kiểm tra các giả thuyết liên quan đến sự sống sót và tử vong. Nhiều cơ chế có thể gây ra tử vong trong thời gian hạn hán. Một cơ chế chung cho các loài thực vật có quy định nước isohydric là tránh khỏi sự thất bại thủy lực do hạn hán thông qua việc đóng khí khổng, dẫn đến tình trạng đói carbon và chuỗi các tác động tiếp theo như khả năng kháng với các tác nhân sinh học giảm sút. Tử vong do thất bại thủy lực per se có thể xảy ra đối với cây giống hoặc cây isohydric gần chiều cao tối đa của chúng. Mặc dù thực vật anisohydric tương đối chịu hạn tốt hơn, nhưng chúng lại dễ bị thất bại thủy lực do hoạt động với các biên an toàn thủy lực hẹp hơn trong điều kiện hạn hán. Nhiệt độ tăng cao có thể làm trầm trọng thêm tình trạng đói carbon và thất bại thủy lực. Các tác nhân sinh học có thể làm tăng cường và bị tăng cường bởi áp lực thực vật do hạn hán. Các dao động khí hậu ẩm ướt trong nhiều thập kỷ có thể làm tăng sự dễ bị tổn thương của thực vật đối với tử vong do hạn hán bằng cách kích thích sự thay đổi trong kiến trúc thủy lực, khiến cho thực vật dễ mắc sự stress về nước. Sự ấm lên toàn cầu và tần suất ngày càng tăng của các sự kiện cực đoan có thể dẫn đến việc gia tăng các tập hợp tử vong cấp vùng. Quy định tiềm năng nước isohydric và anisohydric có thể phân chia các loài ở giữa sự sống sót và tử vong, và như vậy, việc kết hợp khung thủy lực này có thể hiệu quả trong việc mô hình hóa sự sống sót và tử vong của thực vật trong điều kiện khí hậu tương lai.

Kích Thước của Phân Tử Mạch Đựng Nhánh và Vòng Dịch bởi AI
Journal of Chemical Physics - Tập 17 Số 12 - Trang 1301-1314 - 1949

Các công thức cho bán kính bình phương trung bình của các phân tử polymer có nhánh và có vòng được phát triển dựa trên các giả thiết thông thường liên quan đến thống kê của cấu hình chuỗi. Đối với các phân tử có nhánh, bán kính bình phương trung bình biến thiên chậm hơn so với trọng lượng phân tử của các phân tử thẳng tuyệt đối, trong khi đối với các hệ thống chỉ chứa vòng và chuỗi không nhánh, sự biến thiên diễn ra nhanh hơn so với trường hợp mạch thẳng. Những kết quả này cho thấy rằng về mặt lý thuyết, lượng nhánh hoặc vòng có thể được xác định từ các phép đo tán xạ ánh sáng.

#phân tử polymer #tán xạ ánh sáng #cấu hình chuỗi #nhánh #vòng
Nhiễm khuẩn máu do Klebsiella pneumoniae có khả năng sản xuất Carbapenemase: Giảm tỷ lệ tử vong bằng các phác đồ kháng sinh kết hợp và vai trò của Carbapenems Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 58 Số 4 - Trang 2322-2328 - 2014
TÓM TẮT

Các chủng Klebsiella pneumoniae có khả năng sản xuất carbapenemase (CP-Kp) hiện nằm trong số những tác nhân gây bệnh trong bệnh viện quan trọng nhất. Một nghiên cứu quan sát đã được tiến hành từ năm 2009 đến 2010 tại hai bệnh viện nằm trong khu vực có tỷ lệ mắc cao (Athens, Hy Lạp). Mục đích là (i) đánh giá kết quả lâm sàng của bệnh nhân bị nhiễm khuẩn máu do CP-Kp, (ii) xác định yếu tố dự báo tử vong, và (iii) đánh giá các phác đồ kháng sinh khác nhau được sử dụng. Tổng cộng 205 bệnh nhân bị nhiễm khuẩn máu do CP-Kp đã được xác định: 163 (79,5%) bị nhiễm loại KPC hoặc KPC và VIM, và 42 bị nhiễm loại sản xuất VIM. Trong điều trị quyết định, 103 bệnh nhân nhận được liệu pháp kết hợp (hai hoặc nhiều thuốc có hoạt tính), 72 nhận được liệu pháp đơn (một thuốc có hoạt tính), và 12 nhận được liệu pháp không có thuốc hoạt tính. Còn lại 18 bệnh nhân đã tử vong trong vòng 48 giờ sau khi khởi phát nhiễm khuẩn máu. Tỷ lệ tử vong mọi nguyên nhân sau 28 ngày là 40%. Tỷ lệ tử vong cao hơn đáng kể đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân điều trị bằng liệu pháp đơn so với những người điều trị bằng liệu pháp kết hợp (44,4% so với 27,2%; P = 0,018). Tỷ lệ tử vong thấp nhất (19,3%) được quan sát thấy ở những bệnh nhân điều trị bằng các phác đồ kết hợp có chứa carbapenem. Trong mô hình nguy cơ tỷ lệ Cox, bệnh cuối cùng tử vong (tỷ lệ nguy cơ [HR], 3,25; khoảng tin cậy 95% [CI], 1,51 đến 7,03; P = 0,003), sự hiện diện của các bệnh nền tử vong nhanh (HR, 4,20; 95% CI, 2,19 đến 8,08; P < 0,001), và sốc nhiễm trùng (HR, 2,15; 95% CI, 1,16 đến 3,96; P = 0,015) là những yếu tố dự báo độc lập liên quan đến tử vong. Liệu pháp kết hợp có liên quan mạnh mẽ đến sống sót (HR tử vong cho liệu pháp đơn so với kết hợp, 2,08; 95% CI, 1,23 đến 3,51; P = 0,006), chủ yếu do hiệu quả của các phác đồ có chứa carbapenem.

#Klebsiella pneumoniae #carbapenemase #tỷ lệ tử vong #nhiễm khuẩn máu #phác đồ kháng sinh #liệu pháp kết hợp #vật chủ bệnh viện #carbapenem.
Kết Quả Điều Trị Nhiễm Trùng Máu Do Klebsiella pneumoniae Sản Xuất KPC: Ưu Điểm Của Các Phác Đồ Kết Hợp Kháng Sinh Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 56 Số 4 - Trang 2108-2113 - 2012
TÓM TẮT

Klebsiella pneumoniae sản xuất Klebsiella pneumoniae carbapenemase (KPC) đã được liên kết với nhiễm trùng nghiêm trọng và tỷ lệ tử vong cao. Liệu pháp kháng khuẩn tối ưu cho nhiễm trùng do KPC-sản xuất K. pneumoniae chưa được thiết lập rõ ràng. Chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu hồi cứu để đánh giá kết quả lâm sàng của bệnh nhân nhiễm khuẩn máu do KPC sản xuất K. pneumoniae . Tổng cộng có 41 bệnh nhân độc nhất với cấy máu phát triển KPC sản xuất K. pneumoniae đã được xác định tại hai trung tâm y tế ở Hoa Kỳ. Phần lớn các nhiễm trùng là nhiễm trùng bệnh viện (32; 78%), còn lại là các trường hợp liên quan đến chăm sóc sức khoẻ (9; 22%). Tỷ lệ tử vong thô trong 28 ngày là 39.0% (16/41). Trong phân tích đa biến, liệu pháp xác định với chế độ kết hợp độc lập liên kết với sự sống sót (tỷ số chênh lệch, 0.07 [khoảng tin cậy 95%, 0.009 đến 0.71], P = 0.02). Tỷ lệ tử vong trong 28 ngày là 13.3% ở nhóm liệu pháp kết hợp so với 57.8% ở nhóm đơn trị liệu ( P = 0.01). Kết hợp thường được sử dụng nhất là colistin-polymyxin B hoặc tigecycline kết hợp với carbapenem. Tỷ lệ tử vong trong nhóm này là 12.5% (1/8). Mặc dù có sự nhạy cảm in vitro , bệnh nhân nhận được đơn trị liệu với colistin-polymyxin B hoặc tigecycline có tỷ lệ tử vong cao hơn là 66.7% (8/12). Việc sử dụng liệu pháp kết hợp cho điều trị dứt điểm có vẻ liên quan đến sự cải thiện sống sót trong nhiễm khuẩn máu do KPC sản xuất K. pneumoniae .

#Klebsiella pneumoniae carbapenemase #KPC #nhiễm trùng máu #tỷ lệ tử vong #liệu pháp kết hợp #colistin-polymyxin B #tigecycline #nghiên cứu hồi cứu
Tình trạng quá tải dịch liên quan đến nguy cơ tử vong tăng trong vòng 90 ngày ở bệnh nhân nặng có liệu pháp thay thế thận: dữ liệu từ nghiên cứu FINNAKI tiến cứu Dịch bởi AI
Critical Care - Tập 16 Số 5
Tóm tắt Giới thiệu

Cân bằng dịch tích cực đã được liên kết với nguy cơ tử vong tăng ở bệnh nhân nặng mắc bệnh thận cấp tính có hoặc không có liệu pháp thay thế thận (RRT). Dữ liệu về tích tụ dịch trước khi khởi đầu RRT và tỷ lệ tử vong còn hạn chế. Chúng tôi hướng đến việc nghiên cứu mối liên hệ giữa tích tụ dịch tại thời điểm khởi đầu RRT và tỷ lệ tử vong trong 90 ngày.

Phương pháp

Chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu lâm sàng quan sát phối hợp, đa trung tâm tại 17 đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU) ở Phần Lan trong thời gian năm tháng. Chúng tôi đã thu thập dữ liệu về đặc điểm bệnh nhân, thời gian khởi đầu RRT, và các thông số tại thời điểm khởi đầu RRT. Chúng tôi đã nghiên cứu mối liên hệ của các thông số tại khởi đầu RRT, bao gồm tình trạng quá tải dịch (được định nghĩa là tích lũy dịch > 10% trọng lượng cơ sở) với tỷ lệ tử vong trong 90 ngày.

#quá tải dịch #tử vong 90 ngày #bệnh nhân nặng #liệu pháp thay thế thận #nghiên cứu FINNAKI
Sa sút trí tuệ và tỷ lệ tử vong ở những người mắc hội chứng Down Dịch bởi AI
Journal of Intellectual Disability Research - Tập 50 Số 10 - Trang 768-777 - 2006
Tóm tắt

Đặt vấn đề Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người mắc hội chứng Down (DS) có nguy cơ cao hơn đối với bệnh Alzheimer (AD). Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa rõ liệu tất cả những người mắc DS có phát triển sa sút trí tuệ khi họ già đi hay không.

Phương pháp Chúng tôi đã nghiên cứu 506 người mắc DS, từ 45 tuổi trở lên. Một đánh giá tiêu chuẩn hóa về tình trạng nhận thức, chức năng và thể chất được thực hiện hàng năm. Nếu có sự suy giảm xảy ra, bệnh nhân sẽ được khám và chẩn đoán phân biệt sa sút trí tuệ theo hướng dẫn đồng thuận của Hà Lan đã được chỉnh sửa và theo danh sách kiểm tra triệu chứng ICD-10 cho các rối loạn tâm thần. Chúng tôi so sánh các phát hiện của mình với những dữ liệu đã được công bố trong tài liệu.

Kết quả Tỷ lệ sa sút trí tuệ tổng thể là 16,8%. Đến tuổi 60, tỷ lệ sa sút trí tuệ tăng gấp đôi ở mỗi khoảng thời gian 5 năm. Đến 49 tuổi, tỷ lệ này là 8,9%, từ 50 đến 54 tuổi là 17,7%, và từ 55 đến 59 tuổi là 32,1%. Ở nhóm tuổi từ 60 trở lên, có một sự giảm nhẹ về tỷ lệ sa sút trí tuệ còn 25,6%. Việc không tăng tỷ lệ sa sút trí tuệ sau độ tuổi 60 có thể được giải thích bởi tỷ lệ tử vong cao hơn ở những bệnh nhân DS có triệu chứng sa sút trí tuệ (44,4%) so với những bệnh nhân không sa sút trí tuệ (10,7%) mà chúng tôi quan sát trong quá trình theo dõi 3,3 năm. Không có sự giảm nào trong tỷ lệ mắc bệnh sa sút trí tuệ ở nhóm tuổi từ 60 trở lên. Các phát hiện của chúng tôi rất giống với những gì đã được công bố trong tài liệu. Bệnh nhân mắc sa sút trí tuệ thường được điều trị nhiều hơn với thuốc chống động kinh, thuốc chống tâm thần và thuốc chống trầm cảm. Lịch sử trầm cảm có liên quan chặt chẽ với sa sút trí tuệ.

Kết luận Nghiên cứu của chúng tôi là một trong những nghiên cứu dựa trên quần thể lớn nhất cho đến nay. Chúng tôi thấy rằng mặc dù tỷ lệ sa sút trí tuệ tăng theo cấp số nhân theo độ tuổi, tỷ lệ sa sút trí tuệ ở những người mắc DS lớn tuổi nhất không vượt quá 25,6%.

Vắc-xin COVID-19: sự phát triển nhanh chóng, hệ lụy, thách thức và triển vọng tương lai Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2021
Tóm tắt

COVID-19 đã ảnh hưởng đến hàng triệu người và tạo ra gánh nặng chưa từng có cho các hệ thống chăm sóc sức khỏe cũng như nền kinh tế toàn cầu. Hiện tại, không có liệu pháp quyết định cho COVID-19 hoặc các biến chứng liên quan. Hy vọng duy nhất để làm giảm thiểu đại dịch này là thông qua vắc-xin. Các vắc-xin COVID-19 đang được phát triển nhanh chóng, so với các loại vắc-xin truyền thống, và đang được phê duyệt thông qua Cấp phép Sử dụng Khẩn cấp (EUA) trên toàn cầu. Đến nay, có 232 ứng viên vắc-xin. Một trăm bảy mươi hai trong số đó đang trong giai đoạn phát triển tiền lâm sàng và 60 trong giai đoạn phát triển lâm sàng, trong đó 9 loại đã được phê duyệt theo EUA bởi các quốc gia khác nhau. Bao gồm Vương quốc Anh (UK), Hoa Kỳ (USA), Canada, Nga, Trung Quốc và Ấn Độ. Việc phân phối vắc-xin đến tất cả mọi người, với một loại vắc-xin an toàn và hiệu quả, là ưu tiên hàng đầu của tất cả các quốc gia để chống lại đại dịch COVID-19 này. Tuy nhiên, quy trình phát triển vắc-xin COVID-19 và EUA nhanh chóng hiện tại có nhiều câu hỏi chưa có lời giải. Thêm vào đó, sự biến đổi của chủng SARS-CoV-2 tại Vương quốc Anh và Nam Phi, và sự lây lan gia tăng của nó trên toàn cầu đã đặt ra nhiều thách thức hơn, cả cho các nhà phát triển vắc-xin cũng như các chính phủ trên toàn thế giới. Trong bài đánh giá này, chúng tôi đã thảo luận về các loại vắc-xin khác nhau với ví dụ về vắc-xin COVID-19, sự phát triển nhanh chóng của chúng so với vắc-xin truyền thống, các thách thức liên quan và triển vọng tương lai.

#COVID-19 #vắc-xin #phát triển nhanh chóng #thách thức #tương lai
Nghiên cứu polysomnogram trên trẻ sơ sinh bị tử vong do hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh Dịch bởi AI
American Academy of Pediatrics (AAP) - Tập 82 Số 5 - Trang 721-727 - 1988

Các phát hiện từ polygraf của 11 trường hợp trẻ sơ sinh có thể trở thành nạn nhân của hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS) được báo cáo và so sánh với các cặp trẻ sơ sinh đối chứng tương ứng. Các bản ghi đã được thực hiện nhằm giảm bớt lo âu cho cha mẹ về chứng ngưng thở trong khi ngủ. Bốn trẻ sơ sinh có anh chị em là nạn nhân của SIDS. Hai trẻ sơ sinh được nghiên cứu từ 3.5 đến 9.5 tuần trước khi tử vong của chúng do một sự kiện đe dọa tính mạng không rõ nguyên nhân xảy ra trong khi ngủ. Đối với mỗi nạn nhân của SIDS, hai trẻ sơ sinh đối chứng đã được chọn từ số 2.000 trẻ sơ sinh đã được kiểm tra tại cùng một bệnh viện. Chúng được ghép cặp theo giới tính, độ tuổi thai kỳ, độ tuổi sau sinh và cân nặng khi sinh với các nạn nhân SIDS. Các bản ghi polygraf của chúng đã được thực hiện trong điều kiện tương tự. Mỗi bản ghi được phân bổ một số mã ngẫu nhiên và được phân tích mà không biết danh tính của bệnh nhân bởi hai người chấm điểm độc lập. Hầu hết các biến về giấc ngủ và thông khí tim-phổi được nghiên cứu không phân biệt được nạn nhân SIDS với trẻ sơ sinh đối chứng. Chỉ có bốn biến số đặc trưng cho các nạn nhân SIDS tương lai: thời gian tối đa của các đợt ngưng thở trung tâm, số lần thở dài theo sau bởi một đợt ngưng thở trung tâm, sự hiện diện của các đợt ngưng thở tắc nghẽn, và sự hiện diện của các đợt ngưng thở hỗn hợp. Các đợt ngưng thở trung tâm kéo dài hơn trong tất cả các trạng thái giấc ngủ ở các nạn nhân SIDS so với các đối chứng, nhưng không cái nào vượt quá 14 giây. Các đợt thở dài ngay sau một đợt ngưng thở ít gặp hơn đáng kể ở nhóm trẻ sơ sinh có nguy cơ SIDS trong tương lai. Các đợt ngưng thở tắc nghẽn và hỗn hợp được quan sát thấy ở tám trong số 11 nạn nhân SIDS và chỉ ở ba trong số 22 trẻ sơ sinh đối chứng. Chúng xảy ra thường xuyên hơn một cách có ý nghĩa (tổng số lần xảy ra: 89 trong nhóm SIDS và ba trong nhóm đối chứng) và kéo dài lâu hơn ở các nạn nhân SIDS so với nhóm đối chứng. Dữ liệu hiện tại xác nhận một số báo cáo trước đây về sự gia tăng thở tắc nghẽn ở trẻ sơ sinh mà cuối cùng tử vong do SIDS. Sự quan sát số lượng đợt thở dài theo sau bởi một đợt ngưng thở giảm ở nhóm này đặt ra khả năng phản ứng của các thụ thể hóa học ngoại biên ở một số trẻ sơ sinh này là thấp hơn. Mặc dù những quan sát này không xác lập được các dự đoán nguy cơ cho những trẻ sơ sinh cuối cùng成为 nạn nhân của SIDS, nhưng chúng cung cấp thêm bằng chứng gián tiếp về khả năng suy giảm kiểm soát hô hấp liên quan đến giấc ngủ ở một số trẻ sơ sinh này.

Tổng số: 153   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10